Business and Brand

THƯƠNG HIỆU SẢN PHẨM RƯỢU VIỆT NAM – BÀI 1

Việt Nam là một trong những nước có nhiều tiềm năng sản xuất rượu. Có rất nhiều bí quyết sản xuất rượu truyền thống đang được lưu giữ nhưng có nguy cơ bị thất truyền. Cái mà chúng ta cịn thiếu đó là tính chuyên nghiệp, quy trình sản xuất cơng nghiệp v yếu tố marketing để nâng sản phẩm và thương hiệu rượu Việt Nam lên tầm quốc tế.

THƯƠNG HIỆU SẢN PHẨM RƯỢU VIỆT NAM

THƯƠNG HIỆU SẢN PHẨM RƯỢU VIỆT NAM

Rượu là một trong những sản phẩm đồ uống chiếm tỷ trọng thị phần cao nhất trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất đồ uống trên toàn cầu.

Để bàn về rượu nói riêng và đồ uống nói chung là cả một đề tài vô tận. Trong phạm vi bài viết này xin tập trung phân tích hiện trạng thị trường rượu toàn cầu và so sánh cơ hội cho sự hình thành các thương hiệu Rượu Việt mang tầm quốc tế.

 

Những dòng rượu danh tiếng và phổ biến

Ngoài rượu vang ra, các dòng rượu nổi bật và phổ biến nhất trên thế giới gồm có: (1) dòng Scotch Whisky truyền thống từ nguyên liệu chủ yếu Malt (Luá Mạch) là xuất xứ từ Scotland, song song với Irish Whiskey, sau đó là các dòng phụ như Canadian Whisky, Indian Whisky và Japanese Whisky; (2) dòng Bourbon Whiskey là đặc sản của Mỹ, rất khác với Whisky truyền thống là từ nguyên liệu Ngô, Bắp (51% trở lên); (3) dòng Cognac, Armagnac là thương hiệu đặc sản của Pháp là rượu mạnh từ nho (tức Brandy, khác với rượu vang nho ở quá trình chưng cất) cùng với Brandy nói chung có xuất xứ từ Hy Lạp và Babilon cổ đại; (4) dòng Rum là rượu mạnh từ đường mía xuất xứ từ Cuba và các nước Mỹ La Tinh kể từ thời thuộc địa Tây Ban Nha. Riêng Châu Á cũng có hai dòng rum nổi tiếng, một là La Tondena (của tập đoàn San Miguel) và dòng rum của Thailand với thương hiệu điển hình là Ruang Khao (của Thai Spirit Co. Ltd.); (5) Vodka là dòng rượu mạnh từ ngũ cốc, xuất xứ từ Nga, sau này có rất nhiều các dòng vodka sản xuất bên ngoài nước nga có thể kể như Absolut (Sweden), Sky (USA); (6) Soju và Sochu là hai dòng rượu mạnh từ ngũ cốc của Hàn Quốc và Nhật Bản, sản xuất theo phong cách gần giống vodka.

 

Thuật ngữ, tên gọi và thương hiệu

Vấn đề thuật ngữ, tên gọi sản phẩm và thương hiệu của thế giới rượu, vốn rất phức tạp và cần được hiểu thấu đáo để so sánh với cách gọi sản phẩm, thương hiệu cho các dòng rượu của Việt Nam, từ đó có thể xác lập những thuật ngữ, tên gọi và thương hiệu chuẩn xác cho các dòng sản phẩm của Việt Nam.

(1)   Thuật ngữ Rượu Vang, Wine, Vine, Vino (danh từ chung) dùng để chỉ rượu sản xuất từ nho và các loại nước ép hoa quả (trái cây) khác nhau. Như vậy các loại rượu vang từ quả nho (Vang Đà Lạt, Vang Thăng Long) và quả mận (Rượu Vang Mận Mộc Châu) là những thương hiệu Vang đầu tiên của Việt Nam. Ngoài ra rượu vang từ hoa Hồi (Anis) cũng là một dòng đáng kể, với thương hiệu Bernob Ricard. Điều đáng lưu ý là rượu Hồi Bernob Ricard lừng danh từng được sản xuất từ nguyên liệu hoa Hồi của xứ Đông Dương. Thương hiệu Địa danh độc quyền của rượu Vang là Bordeaux (của Pháp) là một dạng “thương hiệu tập thể” hay “chỉ dẫn địa lý” nổi tiếng khắp toàn cầu. Các dòng rượu vang nổi tiếng khác hiện nay gồm có rượu vang Italia, rượu vang Úc, rượu vang California, Chile. Trung Quốc hiện cũng đang trở thành một trong nước sản xuất rượu Vang hàng đầu thế giới.

(2)   Rượu whisky, whiskey (Uýt-ki, danh từ chung),mà điển hình là Scotch Whisky (Scoth là thương hiệu) và Bourbon Whiskey (Bourbon là thương hiệu) có ba nhóm chính: (a) scotch là whisky xuất xứ Scotland, nên dịch là whisky từ lúa mạch, hay chính xác hơn là whisky từ malt; (b) Irish Whiskey cũng là rượu từ lúa mạch, nhưng sản xuất tại Ai-Len; (c) Bourbon Whiskey lại là rượu Uýt-ki sản xuất từ ngô (bắp) là tên gọi độc quyền của Mỹ. Nghĩa là rượu Sán Lùng của Việt Nam cũng có thể gọi xác nghĩa nhất là Whiskey (ám chỉ rượu ngô), nhưng không được gắn nhãn Bourbon Whiskey.

(3)   Vodka là danh từ chung chưa có quốc gia nào sở hữu, vodka được hiểu là rượu chưng cất từ các loại ngũ cốc trắng (white grain spirit) như gạo, khoai, sắn. Vokda là một trong những thức uống lâu đời của khu vực văn hóa Slaver và Scandinavia. Dưới thời Sa Hoàng nươc Nga đã có ý thức bảo vệ danh tiếng của rượu vodka. Gần đây CHLB Nga đã có ý thức hơn trong việc bảo vệ một trong những tài sản vô giá của nước Nga đó là thương hiệu rượu Vodka vốn xuất xứ từ Nga. Điển hình trong trường hợp này là tình huống tranh chấp nhãn hiệu Stolichnaya với tập đoàn Diageo dẫn đến việc phân định sở hữu thương hiệu bên trong lãnh thổ nước Nga thuộc về chính phủ Nga, và bên ngoài lãnh thổ Nga vẫn thuộc quyền sở hữu của Diageo.

(4)   Soju là thương hiệu quốc gia về rượu truyền thống của Hàn Quốc. Danh từ Soju, hay Sochu (Nhật Bản) cũng giống như thuật ngữ “rượu” của Việt Nam nhưng đã được quốc tế hóa và pháp lý hóa một phần. Thương hiệu Jinro Soju hiện nay xếp vào vị trí số một thế giới về sản lượng đối với một thương hiệu sản phẩm đơn lẻ (single brand), vượt qua cả Johnnie Walker lừng danh.

(5)   Rượu Gin là một dòng rượu chưng cất từ các loại ngũ cốc trắng (white grain spirit) và có tẩm hương liệu, chủ yếu là cây Bách Xù (Juniper), Hồi, Bạch Chì (Angelica) và một số loại thảo mộc khác. Rượu Gin xuất xứ từ Hà Lan, Bỉ sau đó lan sang Anh và được phổ biến khắp thế giới. Thuật ngữ London Dry Gin là một chuẩn thương hiệu do sự chuẩn hóa việc sản xuất rượu Gin của Hoàng gia Anh.

(6)   Rượu Rum có xuất xứ từ vùng Caribê và các nước Trung- Nam Mỹ. Tại Braxin nó được gọi là Cachaca. Đây là dòng rượu ít được chuẩn hóa hơn so với Scotch, Bourbon và Cognac. Rượu Rum được sản xuất chủ yếu từ Đường Mía lên men và chưng cất, sau đó ủ và phối trộn giống như quá trình sản xuất bourbon. Rươu rum thường chia làm 3 nhóm chính, rượu rum trắng, rum vàng và rum đen. Rum màu nâu sẫm được ủ rất lâu năm và được chuẩn hóa trong việc ghi nhãn tạo ra những sản phẩm cao cấp sánh ngang với các dòng đắt tiền như theo chuẩn XO của Cognac.

(7)   Tequila, một sản phẩm thương hiệu độc đáo xuất xứ từ Mexico, lại được sản xuất từ nguyên liệu cây dứa dại (agave) qua quá trình lên men và chưng cất. Danh từ Tequila hiện nay do chính phủ Mexico sở hữu như một thương hiệu quốc gia, trước đây quy định tất cả sản phẩm Tequila phải được đóng chai tại Mexico và bắt buộc ghi nhãn xuất xứ Mexico. Năm 2006 chính phủ Mỹ dành được một cam kết nhập khẩu tequila bán thành phẩm để đóng chai tại Mỹ nhưng cũng phải ghi rõ nguồn gốc xuất xứ Mexico và chỉ được nhập loại Tequila có chứa thành phần Agave cao nhất là 51%.

(8)   Cognac và Armanac là rượu mạnh làm từ nho, khác với whisky là làm từ malt (luá  mạch ủ). Danh từ cognac (tên địa danh thuộc Pháp) là thương hiệu do Pháp sở hữu, cũng giống như tình huống Bordeaux đối với rượu vang. Cognac chủ yếu làm từ giống nho Ugni Blanc của vùng Cognac tạo ra vang trắng, sau đó được chưng cất và ủ theo quy trình truyền thống chuẩn mực và được phân cấp rất rõ ràng. Vì vậy các dòng “rượu mạnh từ nho” khác sẽ không được gọi là Cognac (Martell chẳng hạn) mà được gọi là Brandy, kèm theo xuất xứ của nó (Canadian Brandy, Japanese Brandy).

(9)   Phân biệt rượu mùi (aperitifs) và rượu ngâm của Việt Nam
Có điều lý thú là rượu mùi theo từ gốc Aperitif của Phương Tây là rượu chủ yếu dùng để pha chế Cocktail, còn các loại rượu ngâm của Việt Nam thì chủ yếu mang ý nghĩa và công dụng về “dượu tửu”. Có thể nói Việt Nam chiến kỷ lục thế giới về các loại “dược tửu” và rượu ngâm từ vô số loại thảo dược, động vật khác nhau. Tuy nhiên vấn đề chuẩn hóa chất lượng là cả một vấn đề vô cùng phức tạp.

 

Khái quát một Chiến lược

Trong chiến lược nâng tầm thương hiệu sản phẩm nông sản, rượu là một trong những dòng sản phẩm chủ lực vì giá trị cộng thêm của nó rất cao, đồng thời khả năng thâm nhập của “dòng Ẩm” tức đồ uống bao giờ cũng dễ hơn là “dòng Thực” tức là các món ăn.

Đi sâu hơn một chút về rượu, theo chuyên môn về công nghệ chế biến thực phẩm thì rượu là sản phẩm của qúa trình lên men (fermentation) chuyển hoá từ các loại tinh bột và đường sang rượu (ethylene glycol); sau đó chưng cất (distillation), ủ trong thùng (aging) và phối trộn (blending). Quy trình này về mặt công nghệ không còn xa lạ đối với các kỹ sư chế biến thực phẩm Việt Nam. Vấn đề chính là ở khâu hình thành ý tưởng sản phẩm tổng thể phù hợp về nguyên liệu, sự hài hòa giữa yếu tố lý tính và cảm tính, sự hấp dẫn về mặt gía trị văn hóa, tên thương hiệu và chiến lược marketing quốc tế.

Chúng ta không nhất thiết phải quảng bá rượu tại Việt Nam. Trong chiến lược marketing toàn cầu, thị trường mục tiêu của Rượu Việt là phạm vi toàn cầu phải là những nước như Nga, Mỹ, Hàn Quốc… nơi phát xuất của Vodka, Whiskey và rượu Soju. Trong chiến này rất cần tham khảo một loại rượu nổi tiếng là Tequila của Mexico vốn chỉ được làm từ dịch ép của thân cây dứa dại (agave) với ý thức bảo vệ thương hiệu trên quy mô toàn cầu.

Mỗi thương hiệu, sản phẩm rượu nổi tiếng thế giới đều có một phong cách rất riêng biệt, các sản phẩm rượu rum chế biến từ đường mía của Cuba (nhãn hiệu Barcadi và Havana Club) mang hình ảnh văn hoá thuộc địa (Tây Ban Nha); rượu hồi (anis pastis) của hãng Pernod Ricard thì mang âm hưởng thuộc địa Nam Trung hoa và Đông dương; rượu vang và cognac thì mang ấn tượng của những cánh đồng nho trĩu quả miền nam nước Pháp; còn Whiskey ngô (tức bourbon) như Jim Beam thì vẫn còn lưu giữa ấn tượng hình ảnh của những chàng cao bồi khai phá miền Viễn Tây; Johnnie Walker thì mang ấn tượng của các nhà quý tộc truyền thống của xứ sở Ê-Cốt (Scotland).

Thông qua sự phân tích triệt để sự hình thành các dòng rượu nổi tiếng thế giới, chúng ta sẽ có một các nhìn bao quát hơn để hoạch định các chiến lược sản phẩm, thương hiệu cho Việt Nam. Các doanh nghiệp cũng có thêm một kiến thức sâu rộng hơn từ các chuyên gia am hiểu thương hiệu trong ngành rượu và đồ uống (nói chung) có thể giúp doanh nghiệp xây dựng những ý tưởng sản phẩm hấp dẫn và sâu sắc về mặt chiến lược. Trong việc này vai trò của Hiệp hội cũng rất quan trọng, nhất là việc những người phụ trách hiệp hội cần bắt tay với các chuyên gia trong lĩnh vực marketing là điều hết sức cần thiết để đưa ra những kế hoạch khả thi không chỉ trong nước mà có thể thành công trên phạm vi toàn cầu trong một tương lai không xa.

 

Nét thăng hoa tích cực từ rượu…

Như vậy chúng ta có thể thấy rằng tất cả các loại Hoa quả và Ngũ cốc đều có thể chuyển  hoá thành rượu, một sản phẩm hay trải nghiệm tiêu dùng mà xét theo khía cạnh tích cực, mang lại cảm hứng cho sự sáng tạo, vơi đi lo lắng cho những kẻ hay buồn phiền, cho đàn ông thêm chút nam tính để làm hài lòng phái đẹp, cho kẻ nhút nhát chút khí chất quân tử, cho lời xin lỗi được mạnh dạn cất lên, cho lời tỏ tình thêm phần bay bổng, cho tình bạn keo sơn vững bền…

Vào cuối năm 1998, chúng tôi tình cờ được đọc một lá thư của nguyên thủ tướng nước ta gửi cho Bộ Văn hoá, nêu đại ý về việc xem xét khả năng cho phép quảng bá các loại rượu nhẹ. Chúng tôi hiểu rằng mục đích của việc cho phép quảng bá rượu nhẹ là nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản để làm phong phú các chủng loại, tăng sản lượng và chất lượng nông sản chế biến của Việt Nam.

Xét về khía cạnh văn hoá thương hiệu, xem ra các giá trị truyền thống và cảm hứng văn hoá Đông Phương, các truyền thuyết lịch sử cũng như cảm hứng từ truyền thống hào hùng của đất nước và con người Việt Nam, hay cảm hứng từ các danh nhân văn hoá thế giới.. là nguồn cảm hứng vô tận cho việc đặt tên, xây dựng hình ảnh và tạo phong cách cho các thương hiệu rựơu của Việt nam. Đó chính là việc nâng tầm rượu từ sản phẩm thông thường lên tầm sản phẩm tinh thần, sản phẩm văn hóa mà trong đó hàm lượng giá trị cảm tính và giá trị thẩm mỹ sẽ cao hơn bản thân sản phẩm gốc.

 

Tác giả: chuyên gia thương hiệu, kỹ sư Võ Văn Quang

Business and Brand

7 PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI THƯƠNG HIỆU

Cuộc cạnh tranh trong thương trường là cuộc cạnh tranh giữa các Thương hiệu. Trong khi càng có nhiều người trong chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của Thương hiệu (hay Nhãn hiệu) trong quá trình hình thành và phát triển của một doanh nghiệp, trong khi vấn đề Thương hiệu đang trở nên ngày càng cấp thiết, thì chúng ta vẫn chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và phương pháp luận trong việc Sáng Tạo Tên Nhãn Hiệu.

Tầm quan trọng của việc phân loại thương hiệu

Trong việc đặt tên các nhãn hiệu quốc tế cho doanh nghiệp Việt Nam, chúng ta có thể gặp phải những rào cản như  vấn đề ngôn ngữ, hiểu biết các xu hướng văn hoá quốc tế, và quốc tế hoá các giá trị văn hoá Việt Nam. Các bạn thử hình dung khi mà Phở cũng được biết đến như Sushi; Áo dài cũng được nhiều người biến như Kimono; thì có thể nói rằng chúng ta đã quốc tế hoá các tên Thương hiệu Việt Nam, cho dù đó mới chỉ là tên Thương hiệu của Sản phẩm chứ chưa phải là một Brand thực thụ.

Tên là cốt lõi giá trị thương hiệu (brand equity). Ngay từ khi nảy sinh một ý tưởng sản phẩm (product concept), bạn hãy sáng tạo cho nó một cái tên và biến nó thành ý tưởng nhãn hiệu (brand concept). Đó là bước đầu tiên trong tất cả những gì chúng ta phải làm, để chúng ta có càng nhiều hơn nữa những Vinamilk hay Miss Saigon. Trong nhiều Xu hướng và Phương pháp luận, tác giá xin đề cử phương pháp Destination Branding (Interbrand) là một phương pháp đáng để chúng ta tìm hiểu. Nhưng trước hết chúng ta hãy tìm hiểu giáo trình này. Vì nó được biên soạn bằng tiếng Việt và tác giả đã dành cho nó hai năm nghiên cứu.

 

Bảy cách phân loại Tên Thương hiệu:

Một: Tên Doanh nghiệp và tên Nhãn hiệu Sản phẩm

Tên doanh nghiệp (tên thương hiệu công ty) có thể là tên, phong cách của cá nhân ng­ời sáng lập hay xuất xứ của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp cần thể hiện những nội dung nh­: Triết lý kinh doanh (business philosophy); Tầm nhìn doanh nghiệp (corporate vision); Chính sách nhân sự, động viên con ng­ời (motivation); bao hàm các giá trị, mục đích kinh doanh, chia sẻ quyền lợi; Văn hoá doanh nghiệp (corporate culture).

Khi mà nhãn hiệu sản phẩm  được định nghĩa thật khái quát với các chuẩn giá  trị, mục tiêu và tính cách của nó hoàn toàn giống với mục đích, tầm nhìn và giá trị của doanh nghiệp, thì khi đó đặt Nhãn hiệu và tên Công ty là một. SONY, NOKIA và SAMSUNG là những ví dụ điển hình.

Không có những lý thuyết hay quy định khi nào thì dùng một tên cho cả công ty và nhãn hiệu. Thông thường những ngành hàng cao cấp hay mục tiêu của công ty trùng với mục tiêu chiến l­ợc định vị sản phẩm là chỉ nhắm vào một nhóm đối tượng cụ thể, khi đó có thể yên tâm sử dụng một nhãn hiệu.

Hai: Từ thương hiệu Cấp độ Địa phương đến thương hiệu Toàn cầu

From Local Brand to International, Global brand

Cần thiết phải phân cấp tên nhãn hiệu theo cấp độ thị trường theo địa lý nh­ trên để thấy rằng trong không ít trường hợp, chính cái tên ban đầu làm hạn chế khả năng tiếp cận thị trường.

Local: những cái tên nh­ Kim Hằng, Thắng Lợi, Đảnh Thạnh mang hình thức của một nhãn hiệu địa phương hơn là nhãn hiệu quốc tế. Regional hay International: là những cái tên sử dụng một ngôn ngữ có thể đối thoại với công chúng tiêu dùng ở một nhóm quốc gia. Nhóm các nước nói tiếng Pháp, nhóm các nước nói tiếng Tây Ban Nha sẽ ­a thích những cái tên theo phong cách văn hoá đặc tr­ng của họ. De Bon là một cái tên theo phong cách Pháp. Những cái tên xuất hiện gần đây nh­ E-TOWN của Tp. Hồ Chí Minh hay BIOPOLIS của Singapore thật sự là những các tên thương hiệu mang tầm quốc tế và gần gũi trong tiến trình hội nhập.

Global: một nhãn hiệu toàn cầu tr­ớc tiên phải là một cái tên hoàn hảo, được chấp nhận bởi hầu hết các hệ ngôn ngữ chính. Gobal Brand (Nhãn hiệu Toàn cầu), thực sự là một niềm kiêu hãnh của một quốc gia. Một global brand, xét về góc độ tên nhãn hiệu, là một cái tên hoàn hảo, đơn giản, dễ đọc, hàm xúc ý nghĩa, đặc tr­ng phân biệt, âm sắc hài hoà, cho hầu nh­ tất cả mọi ng­ời, trên mọi quốc gia.

Ba: thương hiệu Nhà sản xuất & thương hiệu Nhà phân phối

Đây là hiện tượng mang tính chất tình huống (tactical) vừa mang yếu tố chiến l­ợc. Một công ty sản xuất chỉ chú trọng vào sản xuất và nghiên cứu sản phẩm có thể không coi trọng vấn đề xây dựng thương hiệu và tạo cơ hội cho các nhà phân phối tự đăng ký nhãn hiệu và tổ chức hệ thống phân phối sản phẩm. Khi đó thương hiệu thuộc về Nhà Phânh Phối. Tại Mỹ vẫn còn khá nhiều công ty chuyên sản xuất thuê cho các công ty phân phối tại Mỹ cũng nh­ ở các nước khác đăng ký nhãn hiệu riêng, thường được gọi là Private Brand hay Dealer Brand.

Tập đoàn Perrigo d­ợc phẩm là một điển hình, mặc dù họ sản xuất ra thuốc cảm chất l­ợng ngang ngữa với Tylenol, nh­ưng hình như­ họ không chú trọng (?) vào thương hiệu và khuyến khích đối tác phân phối tại Mỹ hay tại bất kỳ quốc gia nào, hãy làm nhãn hiệu riêng cho mình và mua sản phẩm d­ới dạng gia công.

Nói một cách nghiêm túc d­ới góc độ Tiếp thị thương hiệu, các nhà  sản xuất không sở hữu thương hiệu đã phạm một sai lầm rất lớn. Bởi càng ngày họ càng phảI lệ thuộc vào các nhà Phân phối và thực chất, ngay cả Perrigo hiện nay, họ đã trở thành những ng­ời (doanh nghiệp) đi làm thuê.

Bốn: thương hiệu của các thương hiệu

(Brand of Brands)

Thương hiệu này chuyên làm công việc chứng nhận cho các thương hiệu khác. ISO 9001, SA 8000, Hàng Việt Nam Chất L­ượng Cao, Vietnam Value Inside là nhãn hiệu của nhãn hiệu. Có một thuật ngữ tương tự để gọi trong tình huống này (Brand of Brands) đó là thương hiệu Chứng nhận (Cerfiticating Brand).

Thương hiệu James Bond chẳng hạn, một khi đã đạt đến đẳng cấp thành công và nổi tiếng hoàn toàn có thể được khai thác như­ một thương hiệu chứng nhận. Và từ đó hình thành một phương thức kinh doanh mới, đó chính là phương thức nh­ượng quyền thương hiệu.

Intel Pentium cũng sử dụng mô thức thương hiệu chứng nhận khi cung cấp chips Intel cho các nhà sản xuất, lắp ráp máy vi tính khác.

Năm: thương hiệu Địa phương & thương hiệu Quốc gia

Một thương hiệu địa phương hay thương hiệu quốc gia là tên và các biểu tr­ng hay dấu hiệu nhận biết giúp ng­ời ta liên t­ưởng ngay đến địa danh đó. Chẳng hạn Tháp Eiffen là biểu tr­ng của Paris, chợ Bến Thành là biểu tượng của Saigon. Tên các địa danh nổi tiếng luôn là đề tài đặt tên nhãn hiệu hàng hoá. Các quốc gia có những quy định riêng trong việc sử dụng và khai thác tên địa danh cho những mặt hàng là sản phẩm của địa phương hay của các chủng loại sản phẩm khác nhau. Tại Việt Nam có lẽ hiện nay tên Sapa đang được nhiều công ty sử dụng cho các sản phẩm r­ượu vang, nước khoáng, hàng mỹ nghệ, du lịch.. Về nguyên tắc tên địa danh là cho địa phương sở hữu. Do vậy một địa phương có quyền đồng ý hay cho m­ợn tên của địa phương mình cho các đơn vị hay cá nhân khác sử dụng, cũng nhu­ họ hoàn toàn có quyền xác lập quyền pháp lý và bảo vệ thương hiệu có họ không bị xâm hại cho dù là sự xâm hại về mặt hình ảnh.

Sáu: Thương hiệu Cá nhân & Hình tượng Cá nhân

Thương hiệu Cá nhân có  thể tồn tại bằng hai hình thức. Một là Tên thương hiệu Cá nhân của một con ng­ời cụ thể có thật và (hai là) Tên hay một hình tượng nhân vật không có thật. Tên một ng­ời nổi tiếng là một thương hiệu thật sự. Chúng ta đều thấy giá trị của các thương hiệu nh­ David Beckhamp, Madonna hay Bill Clinton. Chính vì vậy những ng­ời nổi tiếng thường sử dụng tên của mình để mở rộng sản phẩm, điển hình nh­ thương hiệu thời trang “J. Lo” của Jennifer Lopez, còn Bill Cliton vẫn đang được ng­ỡng mộ nh­ một diễn giả xuất chúng với mức thu nhập từ các buổi diễn thuyết lên tới hàng triệu usd.

Hình t­ượng cá nhân khác với thương hiệu cá nhân. Hình tượng cá nhân là một nhân vật không có thật, có thể là một nhân vật huyền thoại như­ “Thằng Bờm”, hay thần tượng hoá như “Tháng Gióng”, kể cả các thương hiệu hình tượng hình thành trong các bộ môn nghệ thuật đ­ương đại. Điển hình là hình t­ợng James Bond trong loạt phim 007.

Bảy: Phân loại bằng cách chia nhỏ một thương hiệu

Một thương hiệu, cũng như­ một Sản phẩm có thể được chia thành các đơn vị nhỏ hơn. Đơn vị nhỏ nhất của một thương hiệu hay một sản phẩm thường đ­ược giới quản trị gọi là một SKU (Stock Keeping Unit). Một nhãn hiệu như Sunsilk, sẽ có vài product (dầu gội, thuốc nhuộm tóc…) dưới mỗi product sẽ có vài variant (dầu gội trị gàu, dầu gội bồ kết…) dưới mỗi đơn vị brand>product>variant sẽ còn có packtype (chai 200ml, 750ml…) như vậy có thể định nghĩa một SKU của Sunsilk sẽ gồm ‘brand>product>variant>packtype’. Quản trị thương hiệu trong thực tế sẽ diễn ra đến từng SKU chẳng hạn như dự báo (sales forecast), phát triển sản phẩm (product development).

Business and Brand

Đôi điều về thương hiệu doanh nghiệp

Xây dựng và gìn giữ thương hiệu doanh nghiệp như thế nào vẫn là một câu hỏi đối với các doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp lớn, vừa hay nhỏ, dù là doanh nghiệp về chế tạo gia công phần mềm, hay doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, thì việc bảo vệ thương hiệu cho doanh nghiệp vẫn là nỗi quan tâm trăn trở không chỉ của lãnh đạo mà còn của cả nhân viên bấy lâu. Gần đây, thương hiệu trở thành một từ khóa phổ thông. Ở đâu người ta cũng cổ vũ phải xây dựng thương hiệu. Nhưng thực sự thương hiệu là gì? Làm thương hiệu bắt đầu từ đâu, với ai, như thế nào… vẫn là những câu hỏi để ngỏ. Bài viết này đưa ra một vài khái niệm cơ bản về thương hiệu, chức năng của thương hiệu doanh nghiệp và việc xây dựng thương hiệu.

Khái niệm thương hiệu

Khái niệm thương hiệu

1. Khái niệm thương hiệu

“Thương hiệu chính là cái hiệu được thương”

“Hiệu” là những yếu tố vật chất có thể nhận biết bằng giác quan: qua hình ánh – thị giác, qua âm thanh – thính giác, qua mùi – khứu giác, qua vị – vị giác, qua cảm giác của da – xúc giác. Nói cách khác, “hiệu” là các dấu chỉ bề ngoài của một sự vật, “thương” là sự chia sẻ, sự trao đổi, mối thiện cảm hay là những cảm xúc bên trong gợi ra khi người ta bắt gặp dấu hiệu nhận biết sự vật. Như vậy, xây dựng thương hiệu sẽ bao gồm hai hoạt động: Xây dựng hệ thống dấu hiệu nhận diện; Truyền thông để những dấu hiệu này được xã hội thương yêu. Đây chỉ là một cách giải thích vui, còn xét theo khía cạnh pháp luật, thương hiệu được hiểu như sau:

“Thương hiệu, trước hết là một thuật ngữ dùng nhiều trong marketing; là hình tượng về một cơ sở sản xuất, kinh doanh (gọi tắt là doanh nghiệp) hoặc hình tượng về một loại hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ; là tập hợp các dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp khác. Các dấu hiệu có thể là các chữ cái, con số, hình vẽ, hình tượng, sự thể hiện màu sắc, âm thanh… hoặc sự kết hợp các yếu tố đó. Trước hết nó là hình tượng về hàng hóa (sản phẩm) hoặc doanh nghiệp. Tuy vậy nếu chỉ là hình tượng với cái tên, biểu trưng thôi thì chưa đủ; đằng sau nó cần phải là chất lượng hàng hóa, dịch vụ, cách ứng xử của doanh nghiệp với khách hàng, cộng đồng, những hiệu quả và tiện ích đích thực cho người tiêu dùng do hàng hóa và dịch vụ mà nó mang lại…thì thương hiệu đó mới đi sâu vào tâm trí khách hàng.”

 

2. Chức năng của thương hiệu

2.1. Nhận biết và phân biệt thương hiệu

Đây là chức năng rất đặc trưng và quan trọng của thương hiệu, khả năng nhận biết được của thương hiệu là yếu tố không chỉ quan trọng cho người tiêu dùng mà còn cho cả doanh nghiệp trong quản trị và điều hành hoạt động của mình. Thông qua thương hiệu người tiêu dùng và nhà sản xuất có thể dễ dàng phân biệt hàng hóa của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác. Thương hiệu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân đoạn thị trường của doanh nghiệp. Mỗi hàng hóa mang thương hiệu khác nhau sẽ đưa ra những thông điệp khác nhau dựa trên những dấu hiệu nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu của người tiêu dùng và thu hút sự chú ý của những tập hợp khách hàng khác nhau. Khi hàng hóa càng phong phú, đa dạng thì chức năng phân biệt càng trở nên quan trọng. Mọi dấu hiệu gây khó khăn khi phân biệt sẽ làm giảm uy tín và cản trở sự phát triển của thương hiệu, trong thực tế lợi dụng sự dễ nhầm lẫn của các dấu hiệu tạo nên thương hiệu, nhiều doanh nghiệp có ý đồ xấu đã tạo ra những dấu hiệu gần giống với thương hiệu nổi tiếng để cố tạo ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng.

– Thông tin và chỉ dẫn:

Chức năng thông tin và chỉ dẫn của thương hiệu thể hiện ở chỗ: thông qua những hình ảnh, ngôn ngữ hoặc các dấu hiệu khác, người tiêu dùng có thể nhận biết được phần nào về giá trị sử dụng và công dụng của hàng hóa. Những thông tin về nơi sản xuất, đẳng cấp của hàng hóa cũng như điều kiện tiêu dùng …cũng phần nào được thể hiện qua thương hiệu. Nói chung thông tin mà thương hiệu mang đến luôn rất phong phú và đa dạng. Vì vậy các thương hiệu cần phải thể hiện rõ ràng, cụ thể và có thể nhận biết, phân biệt nhằm tạo ra sự thành công cho một thương hiệu. Ví dụ: Framgia là một công ty IT, khi nhắc tới Framgia, khách hàng sẽ nghĩ đến các sản phẩm là sản phẩm IT.

– Tạo sự cảm nhận và tin cậy:

Chức năng này là sự cảm nhận của người tiêu dùng về sự khác biệt, về sự ưu việt hay an tâm, thoải mái, tin tưởng khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ khi lựa chọn mà thương hiệu đó mang lại (Ví dụ: xe máy Nhật, dàn âm thanh Sony, bia Heineken, phần mềm của Microsoft…). Nói đến sự cảm nhận là người ta nói đến ấn tượng nào đó về hàng hóa, dịch vụ trong tâm trí người tiêu dùng. Sự cảm nhận của người tiêu dùng không phải tự nhiên mà có, nó được hình thành tổng hợp từ các yếu tố của thương hiệu như màu sắc, tên gọi, biểu trưng, âm thanh, khẩu hiệu, và sự trải nghiệm của người tiêu dùng. Cùng một hàng hóa, dịch vụ nhưng cảm nhận của người tiêu dùng có thể khác nhau, phụ thuộc vào thông điệp hoặc hoàn cảnh tiếp nhận thông tin, hoặc phụ thuộc vào sự trải nghiệm của người sử dụng. Một thương hiệu có đẳng cấp, đã được chấp nhận sẽ tạo ra một sự tin cậy đối với khách hàng và khách hàng sẽ trung thành với thương hiệu và dịch vụ đó. Chất lượng hàng hóa, dịch vụ là yếu tố quyết định lòng trung thành của khách hàng, nhưng thương hiệu là động lực cực kỳ quan trọng đế giữ chân khách hàng ở lại với hàng hóa, dịch vụ đó và là địa chỉ dể người tiêu dùng đặt lòng tin. Chức năng này chỉ được thể hiện khi thương hiệu đã được chấp nhận trên thị trường.

– Chức năng kinh tế:

Thương hiệu mang trong nó một giá trị hiện tại và tiềm năng. Giá trị đó được thể hiện rõ nhất khi sang nhượng thương hiệu. Thương hiệu được coi là tài sản vô hình và rất có giá trị của doanh nghiệp. Giá trị của thương hiệu rất khó định đoạt, nhưng nhờ những lợi thế mà thương hiệu mang lại, hàng hóa, dịch vụ sẽ bán được nhiều hơn, thậm chí với giá cao hơn, dễ thâm nhập vào thị trường hơn. Thương hiệu không tự nhiên mà có, nó được tạo ra với nhiều khoản đầu tư và chi phí khác nhau, những chi phí đó tạo nên giá trị của thương hiệu. Lợi nhuận và tiềm năng mà doanh nghiệp có được nhờ sự nổi tiếng của thương hiệu sẽ quy định giá trị tài chính của thương hiệu. Hàng năm, tạp chí Business week đưa ra bảng xếp loại của khoảng 100 thương hiệu đứng đầu trên thế giới với giá trị ước tính của chúng. Ví dụ năm 2002: Coca-cola: 69,6 tỉ USD; Microsoft: 64 tỉ; IBM: 51 tỉ; GE: 41tỉ; Intel: 30,8 tỉ; Nokia: 29,9 tỉ; Disney: 29,2 tỉ; Mc. Donald: 26,3 tỉ; Mercedes: 21 tỉ… Tại Việt Nam, thương hiệu P/S được Công ty Elida mua lại với giá 5 triệu USD (trong khi phần giá trị tài sản hữu hình chỉ khoảng trên 1 triệu USD).

2.2. Các lợi ích kinh tế do thương hiệu mang lại:

– Tăng doanh số bán hàng. – Thắt chặt sự trung thành của khách hàng. – Tăng lợi nhuận và tăng thu nhập cho doanh nghiệp. – Mở rộng và duy trì thị trường. – Tăng cường thu hút lao động và việc làm. – Tăng sản lượng và doanh số hàng hóa. – Tăng giá trị sản phẩm do người tiêu dùng phải trả tiền mua uy tín của sản phẩm. – Nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm tăng, điều này dẫn tới tăng trưởng cho kinh tế nói chung. – Thu hút đầu tư

Xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp

Xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp

3. Xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp

Xây dựng một thương hiệu là vấn đề quan trọng đối với bất cứ doanh nghiệp nào. Một thương hiệu mạnh sẽ đem đến sự thành công cho doanh nghiệp và ngược lại, thương hiệu yếu kém sẽ dẫn đến sự diệt vong của doanh nghiệp. Một thương hiệu thành công phải được xây dựng dựa trên những giá trị cốt lõi, bản sắc của doanh nghiệp. Khi khách hàng kết nối cảm xúc với thương hiệu thì họ sẽ dễ dàng chia sẻ những giá trị và niềm tin về thương hiệu với những người khác – đây là yếu tố quan trọng giúp gia tăng doanh số và tạo ra đặc trưng của thương hiệu. Khi khách hàng đã trở thành “tín đồ” của thương hiệu thì cho dù đối thủ có giảm giá hay khuyến mãi lớn thế nào đi chăng nữa thì khách hàng vẫn sẽ chọn thương hiệu của bạn.

 

Dưới đây là 10 gợi ý để xây dựng thương hiệu hiệu quả cho doanh nghiệp:

3.1. Định nghĩa thương hiệu của bạn

Rà soát lại các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp bạn, xác định thị phần mà bạn đang nắm giữ và nắm bắt được những nhu cầu, mong muốn của khách hàng cả về mặt cảm xúc lẫn lý trí. Tính cách thương hiệu là chìa khóa thành công của doanh nghiệp, giúp khách hàng dễ dàng nhận ra thương hiệu của bạn và tạo ra sự khác biệt của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh.

3.2. “Nhân hóa” thương hiệu của bạn

Xem thương hiệu như là một con người – một nhân vật tạo được niềm tin và đem đến những giá trị hữu ích cho khách hàng. Cần gắn hình ảnh thương hiệu với một người hay linh vật nào đó có tính cách giống với tính cách thương hiệu mà bạn muốn xây dựng. Cách này sẽ khiến khách hàng thích thú mỗi khi nhìn thấy hình ảnh của nhân vật và họ sẽ không thể nào quên thương hiệu của bạn. Cách thức này đòi hỏi người làm thương hiệu phải có sự sáng tạo để đem đến sự khác biệt cho nhân vật của mình

3.3. Liệt kê ra những điểm mạnh

Việc tìm ra và “đánh bóng” những điểm mạnh của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Sẽ khó để bạn có thể ghi dấu ấn trong lòng khách hàng nếu bạn không có một điểm mạnh nào nổi bật so với các đối thủ của mình. Những điểm mạnh đó có thể rất đơn giản như: giao hàng nhanh chóng, bảo hành tận nhà, tư vấn qua điện thoại,…

3.4. Xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng

Luôn đem đến cho khách hàng những giá trị đúng như sự mong đợi của họ, có như vậy niềm tin của khách hàng với thương hiệu mới trở nên bền vững. Khi bạn đã có những khách hàng “ruột” trong tay thì thương hiệu của bạn sẽ được họ giới thiệu đến bạn bè, gia đình, người quen của họ

3.5. Đưa ra những thông tin lôi cuốn về sản phẩm, dịch vụ

Việc cung cấp thông tin về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp cho khách hàng là điều mà ai cũng làm, nhưng không phải ai cũng làm tốt. Thông tin cần được cung cấp một cách rõ ràng, chính xác và hướng đến những điều và khách hàng quan tâm. Không nên “nhồi” quá nhiều thông tin trong tài liệu giới thiệu về sản phẩm, dịch vụ. Chỉ cần cung cấp những thông tin cốt yếu cho khách hàng là đủ.

3.6. Xây dựng hình ảnh thương hiệu mới lạ, độc đáo

Những hình ảnh quá quen thuộc, nhàm chán sẽ khiến cho khách hàng nhanh quên bạn. Vì vậy hãy đưa đến cho khách hàng những hình ảnh mới lạ, độc đáo của bạn, có như vậy khách hàng mới ấn tượng về thương hiệu của bạn. Bạn cũng có thể sử dụng những hình ảnh phi thực tế, gây sốc để quảng bá cho thương hiệu

3.7. Đừng cố gắng làm theo cách xây dựng thương hiệu của các “ông lớn”

Hãy tạo ra sự khác biệt của mình thay vì làm theo cách thức của người khác. Mỗi doanh nghiệp đều có những đặt trưng của riêng mình nên cách xây dựng thương hiệu cũng sẽ khác nhau. Cho dù đem cách xây dựng thương hiệu của một thương hiệu thành công nhất áp dụng vào doanh nghiệp của bạn thì cũng không thể giúp nó trở nên nổi tiếng được. Bạn cần tạo ra cho mình một hướng đi riêng, không “đụng hàng” với bất cứ ai, nhưng hãy là sự khác biệt chứ không phải là dị biệt.

3.8. Hãy sáng tạo, táo bạo và liều lĩnh

Một thương hiệu lớn cũng giống như một chú voi, mặt dù to lớn, khỏe mạnh nhưng lại kém linh hoạt. Chính vì vậy một thương hiệu lớn thường phản ứng chậm trước những nhu cầu mới của khách hàng. Đây chính là gót chân Achilles mà bạn có thể khai thác được, hãy mạnh dạn, táo bạo trong việc xây dựng thương hiệu của mình

3.9. Xây dựng thương hiệu ngay trong khâu bán hàng

Khuyến mãi chính là một công cụ đắc lực trong quá trình xây dựng thương hiệu. Tuy nhiện, đừng quá lạm dụng những khoản chiết khấu, giảm giá trong hoạt động bán hàng của mình vì như vậy sẽ vô tình làm giảm giá trị thương hiệu của bạn. Thay vì giảm giá hãy tăng giá trị cho khách hàng, nếu bạn cung cấp sản phẩm thì có thể tặng kèm sản phẩm khác còn nếu bạn cung cấp dịch vụ thì có thể cung cấp miễn phí vài dịch vụ cộng thêm.

3.10. Sự hài lòng của khách hàng là tài sản quan trọng

Một doanh nghiệp gia tăng được 5% khách hàng trung thành nhờ sự hài lòng của họ về sản phẩm, dịch vụ thì lợi nhuận sẽ tăng lên được khoảng 25 – 85%.

Không có cách quảng cáo nào hiệu quả cao với chi phí thấp bằng thông tin truyền miệng của khách hàng, người tiêu dùng. Sự lựa chọn của người tiêu dùng dựa trên uy tín của sản phẩm, uy tín và kinh nghiệm mua sắm từ trước của người giới thiệu. Vì thế, làm cho khách hàng hài lòng là một “tài sản” quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thực tế kinh doanh cho thấy, một doanh nghiệp gia tăng được 5% khách hàng trung thành nhờ sự hài lòng của họ về sản phẩm, dịch vụ thì lợi nhuận sẽ tăng lên được khoảng 25 – 85%.

Điểm mấu chốt ở đây chính là xây dựng thương hiệu cá nhân chủ doanh nghiệp – cũng chính là thương hiệu của doanh nghiệp. Khi xây dựng một chiến lược thương hiệu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hãy chú trọng xây dựng thương hiệu cá nhân. Có một lưu ý khi chuyển hóa thương hiệu cá nhân chủ doanh nghiệp và thương hiệu doanh nghiệp đó là: hoạt động xây dựng thương hiệu cá nhân phải liên tục gắn kết với hình ảnh doanh nghiệp. Và mỗi cá nhân phải sẵn sàng cho sự chuyển dịch từ thương hiệu cá nhân sang thương hiệu doanh nghiệp để hình thành một giá trị thương hiệu tập thể.

Thương hiệu đóng vai trò hết sức quan trọng, không chỉ đối với sản phẩm, dịch vụ, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế quốc gia. Hãy để ý đến xây dựng nhãn hiệu ngay trong những công việc hàng ngày, ngay từ những ngày đầu!

 

Wikipedia

Business and Brand

Thương hiệu là gì?

Brand, một trong những khái niệm mới mẻ trong hệ thống kiến thức marketing hiện đại, làm thay đổi rất nhiều nhận thức kinh doanh, mở rộng biên giới mục tiêu của khái niệm kinh doanh và marketing sang những lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống.

Tại Việt Nam, Brand đang được giới chuyên môn nắm bắt và ứng dụng trước tiên trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm tiêu dùng. Tuy nhiên Brand mang rất nhiều ý nghĩa sâu sắc mà không phải ai cũng hiểu hết được bản chất của vấn đề. Bằng thuật ngữ tạm dịch Brand là Thương hiệu, chúng tôi xin giới thiệu một số khái niệm cơ bản xoay quanh vần đề này nhằm giúp quý độc giả có những quan điểm rõ ràng hơn.

Trước tiên xin giới thiệu một định nghĩa đúng về thương hiệu của Simon Anholt (UK):

Thương hiệu là một sản phẩm, dịch vụ, hay tổ chức, có tên gọi, nhận diện và uy tín đã được công nhận

Thương hiệu là một sản phẩm, dịch vụ, hay tổ chức, có tên gọi, nhận diện và uy tín đã được công nhận

Trước khi định nghĩa ‘thương hiệu là gì’ các bạn phải định nghĩa cho kỹ ‘sản phẩm là gì’ và có một điều rất lý thú trong các lớp đào tạo marketing manager và brand manager… do chuyên gia trực tiếp thảo luận thì phần lớn học viên đồng ý rằng ‘thương hiệu chính là sản phẩm, thương hiệu là đỉnh cao của sản phẩm’ …

1. Thương hiệu là một hình thức mới của Sản phẩm

Hầu hết mọi người khi nhắc đến Thương hiệu (Brand) đều liên tưởng đến một khái niệm quen thuộc là trade-mark (nhãn hiệu), và có rất nhiều cuộc tranh luận trong giới chuyên môn và cộng đồng marketing (kể cả ở các nước tiên tiến) về sự phân biệt giữa trade-mark và brand vẫn chưa ngã ngũ. Những khái niệm gần đây nhất đều cho rằng thương hiệu là một hợp các dấu hiệu nhận biết, các mối quan hệ, những trải nghiệm tiêu dùng… và vì vậy hầu như mỗi học giả có một định nghĩa khác nhau về brand. Trong số nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm thiên về hình ảnh thương hiệu và cũng có những quan điểm chú trọng đến chất lượng sản phẩm.

Là một trong những người đầu tiên ở Việt Nam tiếp cận thực tiễn về brand thông qua quá trình làm việc và nghiên cứu, tác giả có một cách tiếp nhận khác, đó là so sánh 2 khái niệm Product và Brand. Tuy nhiên điều thú vị ở đây là ở chính khái niệm sản phẩm, cần phải được làm rõ trước khi nói đến khái niệm thương hiệu.

Sản phẩm là tất cả những gì đáp ứng một nhu cầu cụ thể của con người, hay một nhóm người, mà bản thân nhu cầu của con người thì vô cùng đa dạng, tứ lý tính đến cảm tính, từ vật chất đến phi vật chất. Chính vì vậy lần đâu tiên tại Việt Nam, tác giả đưa ra một định nghĩa mới và toàn điện nhất về sản phẩm: “sản phẩm là một tập hợp các lợi ích” để thỏa mãn một nhu cầu cụ thể của con người. Về bản chất thì khái niệm sản phẩm hình thành ngay từ giai đoạn đầu tiên của sự tiến hóa của loài người. Dần dần cùng với sự hình thành sự trao đổi sản phẩm, chúng ta có khái niệm “sản phẩm hàng hóa” (commodity). Song song với khái niệm sản phẩm, nhận thức của con người càng ngày càng rõ ràng hơn và sâu sắc hơn về khái niệm “chất lượng”. Chúng tôi định nghĩa rằng “chất lượng” là sự cam kết duy trì “tập hợp các lợi ích sản phẩm”. Khi nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, sản phẩm cũng đa dạng theo mà trong lý thuyết marketing cơ bản đó là “định vị sản phẩm”.

Vậy thì thương hiệu hình thành như thế nào?

Một cách rất dễ hiểu, khi một sản phẩm cụ thể với chất lượng được cam kết thể hiện đúng (giữ lời hứa) và được “người mua” tin tưởng, khi đó hình thành thương hiệu, tức sản phẩm trở thành thương hiệu. Hai thực thể này bản thân không khác nhau, nhưng khi sản phẩm được khách hàng công nhận thì nó trở thành thương hiệu. Ngày hôm nay bạn làm ra một sản phẩm, nhưng nếu ngày mai bạn thuyết phục một người nào đó mua sản phẩm của bạn, nó trở thành một thương hiệu trong quan điểm của khách hàng mà bạn đã chinh phục. Thương hiệu hình thành từ góc nhìn của Khách thể, Sản phẩm là khái niệm từ Chủ thể, đối với cùng một “vật thể” hay “một tập hợp các lợi ích”.

 

Product concept

Product concept

Đỉnh cao của Sản phẩm chính là Thương hiệu!

Thật ra khái niệm ‘đỉnh cao của sản phẩm là thương hiệu’ là một định nghĩa gây ra khá nhiều phản ứng. Trong các buổi giảng về ’20 nguyên tắc đổi mới tư duy tiếp thị thương hiệu’ tác giả nhận được không ít những ý kiến phản đối. Tuy nhiên sau một thời gian chiêm nghiệm thì chính những học viên đó cũng đồng ý với quan điểm mới này. Thương hiệu thật ra là một dạng thức mới của sản phẩm trong quá trình tiến hóa của loài người kể từ thời kỳ đồ đá mới. Quá trình phát triển văn minh nhân loại có thể được mô tả tóm tắc thông qua dạng thức sản phẩm:

Dạng thức 1: sản phẩm cơ bản (product)

Trong giai đoạn cuối của thời kỳ đồ đá mới, loài người đã tạo ra rất nhiều công cụ từ đá và kim loại đồng. Những công cụ này giúp con người chuyển từ săn bắt hái lượm sang giai đoạn biết trồng trọt và chăn nuôi, tức là bắt đầu quá trình làm ra sản phẩm.

Dạng thức 2: sản phẩm hàng hóa (commodity)

Khi năng lực sản xuất được nâng cao, hình thành những ngành nghề sản xuất ra sản phẩm với mức độ đồng đều cao và nhằm mục đích kinh doanh trao đổi hơn là tự cung tự cấp. Khi đó hình thành dạng thức sản phẩm hàng hóa (commodity).

Dạng thức 3: sản phẩm thương hiệu (brand)

Sản phẩm hàng hóa giúp gia tăng quá trình buôn bán trao đổi. Từ quá trình này hình thành những cam kết chất lượng hay uy tín của sản phẩm. Chính động thái này đã hình thành những khái niệm sơ khai nhất về thương hiệu: ‘thương hiệu là sự cam kết chất lượng’, ‘thương hiệu là sự bảo đảm uy tín sản phẩm’. Nhưng thật ra ở dạng thức thứ 3 về sản phẩm đã khẳng định một khái niệm mới: ‘thương hiệu chính là một dạng sản phẩm đỉnh cao’ trong quá trình phát triển văn minh nhân loại.

 

Thương hiệu là một sản phẩm hoàn chỉnh

Thương hiệu là một sản phẩm hoàn chỉnh

Tác giả thành thật khuyên những ai còn ‘bán tính bán nghi’ về những luận thuyết mới này (new brand thesis) thì xin vui lòng tham khảo một trong những học giả uy tín nhất gần đây về thương hiệu, đó là Simon Anholt (UK). Tư tưởng của Simon Anholt là gấn nhất với những gì bản thân tác giả đã chia sẻ với cộng đồng những khái niệm mới và sâu sắc nhất về brand – thương hiệu. Xin mời quy vị tham khảo thêm những luận điểm có cùng một tư tưởngvới chuyên gia thương hiệu Võ Văn Quang,hãy tham khảo tác phẩm mới nhất của Simon Anholt “New Brand Justice” Công lý Mới của Thương hiệu. Những tư tưởng mới của Simon Anholt mặc dù được xem là thiên về Socialism (xã hội chủ nghĩa) tuy nhiên bản chất thương hiệu (theo VVQ) là không thuộc về Tư bản hay Xã hội Chủ nghĩa. Thương hiệu hình thành một quan đểm kinh tế học mới, hình thành một mô hình kinh tế mới: mô hình kinh tế thương hiệu.

2. Sự hình thành Trade-mark

Như trên chúng ta đã đề cập, nhu cầu tối thượng của loài người là mong muốn sản phẩm càng ngày có chất lượng cao hơn. Sự cam kết chất lượng được pháp lý hóa thành khái niệm Trade-mark. Hàng nghìn năm trước khi có thuật ngữ Trade-mark con người đã có những khái niệm tương tự về vấn đề này… Chính sự tiếp cận khái niệm Thương hiệu (brand) từ trade-mark của không ít người trong giới marketing đã dấn đến những quan điểm sai lầm rất phổ biến, xem brand chỉ là “một tập hợp các dấu hiệu nhận biết, hình ảnh, tính cách thương hiệu …” trong giới làm branding tạo ra những khái niệm không đầy đủ về brand.

Để dễ hình dung, chúng ta có thể phân biệt hai nhóm khái niệm: trade-mark là những quy định mang tính pháp lý để phân biệt và bảo hộ thương hiệu sản phẩm; còn brand là khái niệm bao trùm của một thương hiệu sản phẩm đích thực.

Vì vậy, để dễ hình dung chúng tôi đưa ra công thức sau đây:

Product + Trade-mark —> Brand

Công thức này mô tả “sự tiến hóa sản phẩm” song hành với quá trình tiến hóa của loài người, từ khái niệm sản phẩm trở thành một thực thể đầy đủ hơn đó là Brand- Thương hiệu. Ngày xưa con người thụ hưởng sản phẩm, ngày nay con người thụ hưởng thương hiệu (trong đó có sản phẩm). Trong cái thực thể sản phẩm mà con người thụ hưởng ngày nay, bên cạnh nhóm lợi ích lý tính cơ bản còn có những lợi ích cảm tính, bên cạnh những nhu cầu cơ bản con có những nhu cầu theo những nấc cao hơn đối với cùng một sản phẩm, mà Abraham Maslow đã mô tả rất cụ thể qua mô hình “tháp nhu cầu” 5 bậc rất dễ hiểu.

3. Brand là thực thể thỏa mãn cao nhất nhu cầu con người

Brand là thực thể đầy đủ nhất thỏa mãn nhu cầu của con người, trong đó có sản phẩm.

 

3 cấp độ hiện hữu của cùng một sản phẩm

3 cấp độ hiện hữu của cùng một sản phẩm

Thông qua minh họa trên đây, chúng ta phân biệt về cơ bản 3 cấp độ hiện hữu của cùng một sản phẩm. Ở cấp độ 1 (product) người ta chấp nhận sử dụng một sản phẩm bất kể nó có được bảo đảm về chất lượng hay không (không có trade-mark), vì vậy rủi ro gặp phải sẽ rất cao; ở cấp độ 2 (product+trademark) chúng ta gần như thỏa mãn thêm nấc nhu cầu cao hơn đó là sự an toàn, bởi khi gặp phải rủi ro chất lượng ít ra chúng ta biết ai là người cung cấp sản phẩm, và sản phẩm bắt buột phải ghi rõ tên gọi, sản xuất…để phân biệt với sản phẩm khác cùng loại; ở cấp độ 3 (brand) không chỉ có trade-mark, sản phẩm còn mang cả hình ảnh (brand image), cá tính, lợi ích cảm tính, thẩm mỹ, nhân cách hóa… của một thương hiệu, thỏa mãn đầy đủ nhất nhu cầu của con người đố với một nhu cầu cụ thể. Sản phẩm ở cấp độ này vì vậy hiện hữu dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều tập hợp phức tạp bao gồm cả lý tính lẫn cảm tính, cả vật thể lẫn phi vật thể, cả chức năng lẫn thẩm mỹ… đó là Thương hiệu, đỉnh cao của Sản phẩm.

4. Sản phẩm là hữu hạn, Thương hiệu là vô hạn

Sản phẩm tồn tại trong môt vòng đời cụ thể, điều này đã được khẳng định bằng lý thuyết marketing cơ bản (Philip Kotler, Principles of Marketing). Thương hiệu là một chuỗi các sản phẩm nối tiếp nhau, và vì vậy nó có khả năng tồn tại lâu hơn, thậm chí là mãi mãi nếu nó nắm bắt được xu hướng phát triển của con người đối với từng nhu cầu cụ thể.

Sau nhiều năm nghiên cứu tác giả (Võ Văn Quang) giới thiệu sau đây một mô hình marketing mới (Brand Marketing) xác định rõ hơn một vòng đời sản phẩm, tức quan điểm cũ của marketing đối với sản phẩm, bằng khái niệm thương hiệu chuỗi sản phẩm, là cơ sở của một lý thuyết marketing mới, Brand Marketing. Như vậy brand marketing không phải là nghiên cứu về branding, mà là quản trị một chiến lược thương hiệu đầy đủ bao gồm cả phần hình ảnh thương hiệu (branding) và sản phẩm chứa bên trong thương hiệu đó.

 

Mô hình thương hiệu chuỗi sản phẩm

Mô hình thương hiệu chuỗi sản phẩm

Khái niệm “thương hiệu chuỗi sản phẩm” là một khái niệm không tách rời, vì thương hiệu và sản phẩm là một tập hợp không thể chia tách. Sự bóc tách chủ yếu là để phân biệt các phần khác nhau của một cơ thể, cũng như con người vậy, chúng ta không thể bóc tác phần xác và phần hồn của một thực thể con người…

Nguồn: Võ Văn Quang

 

https://doanhnghiepvathuonghieu.vn/thuong-hieu-la-gi-30944.html

Business and Brand

Xây dựng thương hiệu – “Con át” chủ bài của doanh nghiệp

Xây dựng thương hiệu là vấn đề được đặt lên hàng đầu khi bắt đầu kinh doanh bởi đó không chỉ đơn thuần là một cái tên mà còn chứa đựng ý nghĩa, thông điệp mà doanh nghiệp hướng đến khách hàng. Doanh nghiệp sở hữu thương hiệu mạnh sẽ đạt được mục tiêu kinh doanh một cách nhanh hơn và hiệu quả hơn rất nhiều. Cùng tìm hiểu thêm về Xây dựng thương hiệu – “Con át” chủ bài của doanh nghiệp trong chủ đề Làm thế nào để bắt đầu kinh doanh online.

 

Hiểu sâu về thương hiệu

Thương hiệu là một tập hợp những cảm nhận của khách hàng về một công ty, một sản phẩm hay dịch vụ với đầy đủ các khía cạnh: mô tả nhận diện (brand identities), giá trị (brand values), thuộc tính (brand attributes), cá tính (brand personality). Thương hiệu ràng buộc với người tiêu dùng qua mối quan hệ thương hiệu-người tiêu dùng (brand-consumers relationship).

Về mặt nhận diện, thương hiệu là cái tên hay dấu hiệu giúp nhận biết một sản phẩm. Một thương hiệu thành công đánh dấu một sản phẩm là có lợi thế cạnh tranh bền vững. Microsoft, IBM, BMW, Coca Cola , Shell …là những ví dụ điển hình về thương hiệu doanh nghiệp, Louis Vuiton, GUCCI, Dove, Tide... là những ví dụ điển hình về thương hiệu sản phẩm.

Thương hiệu là một trong những yếu tố tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm
Thương hiệu là một trong những yếu tố tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm

Thương hiệu là một trong những yếu tố tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm. Thương hiệu là yếu tố giúp người tiêu dùng không bị lẫn lộn, giúp người tiêu dùng vượt qua mọi sự lựa chọn vốn ngày càng đa dạng khi mua một sản phẩm hay dịch vụ. Nhiều người đã từng nghe về những cuộc thử nghiệm nếm Pepsi-coca và Coca-cola mà kết quả cho thấy khi nếm sản phẩm “mù” rất ít người nhận ra sự khác biệt giữa hai loại coca, nhưng khi được hỏi với sản phẩm có nhãn thì đến 65% người tiêu dùng cho là mình thích Coca-cola hơn. Như vậy, thương hiệu là yếu tố để người tiêu dùng đưa ra quyết định mua hàng khi những sản phẩm được coi là giống nhau hầu như không có sự phân biệt nào khác.

Tương tự với trường hợp kinh doanh online, khi bạn và rất nhiều đơn vị khác cùng sản xuất, bán và phân phối một loại sản phẩm, yếu tố giúp bạn vượt mặt đối thủ chính là thương hiệu – điều khách hàng tin tưởng để lựa chọn bạn. Vậy làm thế nào để xây dựng được một thương hiệu mạnh?

Yếu tố để xây dựng thương hiệu

Như chúng ta đã định nghĩa ở trên, thương hiệu là cảm nhận của khách hàng về một sản phẩm, một công ty, một dịch vụ. Cảm nhận ấy hình thành qua thời gian, điều này có nghĩa là một sản phẩm/dịch vụ/giải pháp mới và khách hàng chưa biết, chưa có khái niệm gì thì chưa có thể gọi là một thương hiệu.

Khách hàng hình thành cảm nhận về một sản phẩm, một công ty (và từ đó hình thành thương hiệu) qua những tương tác dưới đây:

  • Trải nghiệm sản phẩm dịch vụ

Trải nghiệm của khách hàng là những gì khách hàng cảm nhận được sau khi mua một sản phẩm về sử dụng, hoặc sau khi sử dụng một dịch vụ. Với thị trường B2B, trải nghiệm của khách hàng hình thành qua quá trình làm ăn với một công ty đối tác.

  • Tương tác, tiếp xúc với nhân viên

Cảm nhận của khách hàng về một thương hiệu cũng hình thành từ những gì còn đọng lại qua những lần tiếp xúc với nhân viên, người đại diện cho thương hiệu để tương tác với khách hàng. Điều này lý giải khái niệm đại sứ thương hiệu.

  • Các hoạt động marketing và truyền thông

Hoạt động marketing là những gì thương hiệu chủ động thực hiện để tác động, hay tạo ra cảm nhận của khách hàng, những cảm nhận tích cực về thương hiệu.

Các hoạt động truyền thông, marketing nhằm xây dựng thương hiệu
Các hoạt động truyền thông, marketing nhằm xây dựng thương hiệu

Nghiên cứu cho thấy các thương hiệu thành công nhất có những đặc điểm chung nhất định hướng đến 5 điều căn bản về giá trị con người là:

  • Khơi gợi niềm vui
  • Tạo sự kết nối
  • Tạo cảm hứng
  • Khơi niềm tự hào
  • Có ảnh hưởng tới cộng đồng

Cách xây dựng thương hiệu thành công

Xây dựng thương hiệu cần dựa trên sản phẩm/dịch vụ mà bạn cung cấp, những giá trị bạn muốn mang đến và hình ảnh bạn muốn khách hàng nghĩ đến về mình.

  • Xây dựng tính năng, lợi ích của sản phẩm

Giá trị của một thương hiệu xuất phát từ sự vượt trội về chất lượng, của lợi ích mà sản phẩm mang lại. Hãy lấy một chiếc áo hàng hiệu làm ví dụ: Trước hết sản phẩm nầy phải được thiết kế đẹp, chất lượng nguyên phụ liệu cũng như là kỹ thuật may phải làm hài lòng người mặc, và cả người không mặc cũng nhận thấy điều này.

  • Xây dựng những giá trị vô hình

Bên cạnh những giá trị hữu hình, dễ nhìn thấy, những giá trị cảm xúc vô hình đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ giữa thương hiệu và khách hàng. Giá trị cảm xúc khó tạo ra nhưng khi đã tạo ra được rồi thì thường bền lâu. Bạn cần phải mang đến cho khách hàng những giá trị như thế: cảm giác sang trọng khi sở hữu sản phẩm, cảm giác thỏa mãn, được đáp ứng nhu cầu tinh thần nào đó của họ… qua các hoạt động truyền thông, quảng cáo, chăm sóc khách hàng…

  • Xây dựng hệ thống nhận diện đặc trưng

Hệ thống nhận diện bao gồm logo, tông màu, font chữ, bao bì, vật dụng, thiết kế cửa hàng… được thiết kế phù hợp góp phần làm tôn vinh những giá trị vô hình và hữu hình của sản phẩm và nhà sản xuất, giúp nhận diện thương hiệu được dễ dàng, nổi bật khi đứng cạnh những sản phẩm khác.

 

Nguồn: Haravan